Kinh tế - xã hội Tam_Quốc

Pháp luật, đời sống kinh tế

Các sử gia Trung Quốc nhận định: thực ra đời sống nhân dân thời Tam Quốc nếu so với cuối thời Đông Hán có phần tốt hơn. Thời Tam Quốc dù là thời chia cắt và mật độ chiến tranh dày hơn nhưng chính trong thời Đông Hán, nhân dân cũng phải chịu lao dịch nặng, thường phải tòng quân đánh các tộc Ô Hoàn, Tiên Ty.

Về đời sống sinh hoạt, các nhà nghiên cứu cho rằng tình hình tốt hơn hẳn. Ngoại trừ Thục Hán trong 9 năm cuối bị hoạn quan Hoàng Hạo thao túng, nhìn chung trong triều đình cả ba nước đều không bị nạn hoạn quan lộng hành. Quan lại lớn nhỏ ở cả ba nước đa số là những người thanh liêm.[2]

Pháp luật của Tào Ngụy hơi thiên về sự nghiêm khắc. Đến thời Ngụy Minh đế Tào Tuấn, pháp luật được hiệu đính, về sau trở thành cơ sở pháp luật của một số triều đại khác.[2]

Tào Ngụy cũng sáng lập ra chế độ "cửu phẩm" - 9 bậc quan lại. Chế độ này được đánh giá là tiến bộ hơn so với chế độ Hiếu liêm, Mậu tài thời Đông Hán chỉ dựa vào quyền thế của cha anh và cha vợ mà có được.[2]

Chính sách đồn điền và thủy lợi của Tào Ngụy tuy nhằm mục đích quân sự là chủ yếu nhưng cũng gián tiếp giúp nhiều cho nông dân.[2]

Về tiền tệ, Tào Ngụy sau khi dùng tiền Ngũ thù và thi hành trở lại chính sách hàng đổi hàng. Tại Tây Thục thực hiện chính sách tiền tệ tốt hơn, một thời gian phát hành tiền lớn nhưng sau đó khôi phục tiền Ngũ thù. Thời Gia Cát Lượng chấp chính luôn dùng chính sách thủ tín với nhân dân nên đời sống ở Thục tương đối ổn định. Tôn Quyền cũng phát hành tiền lớn và sau đó lại phát hành tiền lớn ăn 1000 đồng đổi lấy tiền nhỏ của dân.. Về sau, Tôn Quyền thu hết tiền lớn lại.[3]

Dân số

Lãnh thổ của ba nước Ngụy, Thục, Ngô rộng hơn thời Đông Hán trở về trước. Ba nước không thể thôn tính được nhau nên tính tới chuyện cùng phát triển ra bên ngoài, thu thập các bộ tộc láng giềng nhỏ yếu hơn và văn hóa kém phát triển hơn. Ngụy thu phục người Tiên Ti, Ô Hoàn; Thục thu thập người Di và người Khương ở Thanh Hải; Ngô thu phục người Việt ở vùng núi ba tỉnh Giang, Chiết, Hoãn.[3]

Về dân số, nhà Ngụy là mạnh nhất. Khi nhà Ngụy mất (265), quốc gia này có hơn 663.423 hộ gia đình và 4.190.891 người trong phạm vi biên giới của mình. Nhà Thục có 280.000 hộ dân số 940.000 người. Đông Ngô có 523.000 hộ, 2.558.000 người.[4] Như vậy, nhà Ngụy chiếm hơn 58% dân số và khoảng 40% diện tích. Với những nguồn lực này, nhà Ngụy có thể có tới hơn 400.000 quân trong khi nhà Thục và Ngô có thể có 102.000 và 230.000 quân tương ứng: khoảng 10% dân số. Liên minh Thục-Ngô chống lại nhà Ngụy là một liên minh quân sự ổn định; biên giới của ba quốc gia này gần như không thay đổi trong hơn 40 năm.[5] Cần lưu ý là trong thời kì này lưu dân chạy loạn rất nhiều, nhất là ba nước mới lập quốc, và các lưu dân thường cố tình che giấu hộ tịch để trốn đinh, trốn thuế nên dân số thực tế có thể cao hơn 20-50%.

Nhà Ngụy khi diệt Thục có dân số gấp 4 lần Thục, khi Tấn diệt Ngô thì dân số gấp 6,3 lần. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến Ngô và Thục lần lượt mất về tay Ngụy và Tấn.[6]

Thương mại và vận tải

Trong thuật ngữ kinh tế sự phân chia thời Tam Quốc phản ánh một thực tế được kéo dài đến tận sau này. Thậm chí trong thời nhà Bắc Tống, bảy trăm năm sau thời kỳ Tam Quốc, có thể nghĩ về Trung Hoa như là một thực thể của ba thị trường khu vực lớn. (Tình trạng của miền tây bắc thì hơi mâu thuẫn, vì nó được liên kết bởi khu vực tây bắc và miền Tứ Xuyên). Sự phân chia địa lý như vậy được nhấn mạnh bởi một thực tế là tất cả các tuyến giao thông chính giữa ba khu vực lớn đều là nhân tạo: Đại Vận Hà ("Kênh đào vĩ đại") liên kết miền bắc và miền nam, việc vận chuyển qua Tam Hiệp trên sông Dương Tử liên kết nam Trung Hoa với Tứ Xuyên và con đường hành lang (gallery road) nối Tứ Xuyên với miền tây bắc. Sự chia cắt thành ba thực thể riêng rẽ này là hoàn toàn tự nhiên và thậm chí được tiên đoán trước bởi những nhà chính trị như Gia Cát Lượng (Xem thêm Kế hoạch Long Trung 隆中對).

Văn hóa, nghệ thuật và khoa học

Con của Vương Lãng nhà Tào Ngụy là Vương Túc nổi tiếng trong lĩnh vực cổ văn. Có ý kiến cho rằng chính Vương Túc chứ không phải Khổng An Quốc, mới là tác giả của bộ Cổ văn Thượng thư truyện. Con Vương Túc là Vương Bật được đánh giá là thiên tài, người đã chú giải Lão tử, sau đó lại dùng Lão tử giải thích Kinh dịch.[7]

Ba cha con Tào Tháo, Tào PhiTào Thực được đời sau xếp vào hàng những nhà thơ tiêu biểu cuối thời Đông Hán, đầu thời Tam Quốc. Ngoài thơ ca, Tào Thực còn nổi tiếng với bài phú đài Đồng Tước. Tào Phi tuy kém Tào Thực một bậc nhưng chính là người mở đầu cho thể thơ thất ngôn. Về tiểu thuyết, thời Tam Quốc có Lục dị ký và truyện ma quỷ Sưu thần ký, cũng được cho là của Tào Phi.[8]

Một học giả nổi tiếng khác là Cam Bảo, để lại tác phẩm Ngụy Tấn Xuân thu, đây chính là tài liệu mà sau này Bùi Tùng Chi thời Lưu Tống dùng để chú giải Tam Quốc chí. Ngoài ra, còn có các nhà sử học khác như Ngư Quyền viết Ngụy lược, Vi Chiêu viết Ngô thư và Tiêu Chu nhà Thục Hán viết Cổ sử khảo.[8]

Về nghệ thuật, hiện nay Bảo tàng Mỹ thuật Boston (Mỹ) còn lưu giữ bức tranh hai người du xuân rất sinh động. Trong nghệ thuật kiến trúc, các chùa Phật giáo, miếu của Đông Ngô rất phát triển: Vũ Xương có chùa Tuệ Bảo, Kiến Nghiệp có viện Thủy Tướng và chùa Bảo Ninh, Ngô huyện có chùa Thông Huyền, huyện Cần có chùa Đức Nhuận. Ở miền bắc, Tào Tháo dựng đài Đồng Tước sau khi thua trận Xích Bích.[8]

Về khoa học, thời Tam Quốc đã bắt đầu ứng dụng ma túy và dùng thủ thuật lấy sỏi mật ra. Tên tuổi của danh y Hoa Đà còn truyền đến nhiều đời sau. Người nước Ngụy là Mã Quân có công phát minh ra xe chỉ nam, xe bắn đá; đồng thời cũng được xem là người phát minh ra guồng nước. Ngoài ra, còn có nhà toán học Lưu Huy, tác giả của bộ Hải đảo toán kinh.[8]